Vì lí do này,
công tác xã hội đã bắt đầu xuất hiện, tồn tại và hoạt động nhằm hỗ trợ và giúp
đỡ những người gặp khó khăn, bệnh tật hoặc những người kém may mắn, không có
nơi nương tựa (người nghèo, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, phụ
nữ, người già …), giúp cho xã hội cùng tiến bộ hơn, không chỉ ở các nước phương
tây, mà gần đây còn bắt đầu ở các nước Đông Âu, Châu Phi và Châu Á. Thực tế,
công tác xã hội đã bắt đầu chuyên nghiệp hóa, và ngày nay, nó tồn tại như một
nghề chính thống tại 90 quốc gia (theo định nghĩa của Hiệp hội Quốc tế Công tác
xã hội).
Theo Hiệp hội
công tác xã hội thế giới, công tác xã hội là những hoạt động nhằm tạo ra sự
phát triển của xã hội thông qua việc tham gia quá trình giải quyết các vấn đề
xã hội, giúp cho con người phát triển đầy đủ, hài hòa và đem lại cuộc sống tốt
đẹp hơn cho mọi người dân, có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, bảo vệ
quyền con người, nhân phẩm, giá trị con người, công bằng và bình đẳng xã hội,
thúc đẩy xây dựng một xã hội hài hòa vì hạnh phúc của tất cả mọi người.
Tại Việt Nam,
CTXH được ra đời trong một bối cảnh nhiều khó khăn hơn. Trước năm 1975, nghề
công tác xã hội phát triển theo hai hướng khác nhau ở hai miền Nam, Bắc. Ở miền
Nam, công tác xã hội khi đó đang chuyên nghiệp hóa theo ảnh hưởng của mô hình
Pháp và Mỹ, có các chương trình đào tạo công tác xã hội ở các bậc cao đẳng và
cử nhân, như trường Công tác xã hội Caritas. Ngược lại, ở miền Bắc, công tác xã
hội được hiểu như một hoạt động liên quan đến các công tác từ thiện, xóa đói
giảm nghèo, bảo vệ trẻ em mồ côi và chăm sóc người già, người khuyết tật (đặc
biệt là những người có công với Cách mạng). Sau năm 1975, mô hình của miền Bắc
đã được nhân rộng ra toàn quốc, vì thế nghề công tác xã hội có đào tạo bài bản
ở miền nam đã ngừng hoạt động.
Sau khi thống
nhất đất nước, sự phát triển kinh tế làm xuất hiện trong xã hội thành phần
người giàu và người nghèo rỏ rệt, người nghèo chủ yếu tập trung ở nông thôn với
điều kiện cơ sở hạ tầng còn thấp kém. Ngoài ra, còn những vấn đề sức khỏe, bệnh
tật do di chứng chiến tranh, các vấn nạn : nghiện rượu, ma túy, nạn bạo hành
trong gia đình, thất nghiệp, lạm dụng trẻ em, sức khỏe tâm thần, người cao tuổi
cô đơn…..từ đó, nhu cầu xã hội đòi hỏi sự can thiệp và trợ giúp từ đội ngũ nhân
viên công tác xã hội chuyên nghiệp.
Tại thời điểm
đó, cũng tại thành phố Hồ Chí Minh, công tác Tư vấn và Nghiên cứu Phát triển
Cộng đồng và Công tác Xã hội đã được hình thành, một số tổ chức dân sự xã hội
cũng tham gia cung cấp dịch vụ công tác xã hội ở một mức độ nhỏ. Tại Hà Nội,
một vài Tổ chức phi chính phủ quốc tế và cơ quan phát triển của Liên Hợp quốc
đã bắt đầu giới thiệu công tác xã hội vào các khóa đào tạo cho cán bộ của Hội
Liên hiệp Phụ nữ và Công đoàn. Năm 2004, Bộ GĐ-ĐT đã phê duyệt chương trình
giảng dạy công tác xã hội bậc cử. Năm 2005, Việt Nam đã tổ chức nghiên cứu cấp
quốc gia về nhu cầu nhân sự và đào tạo công tác xã hội ở Việt Nam (UNICEF/Bộ
LĐTBXH, 2005). Năm 2009, nghiên cứu về cơ cấu dịch vụ công tác xã hội đã được
thực hiện, kết quả của nghiên cứu này đã được sử dụng để làm cơ sở xây dựng
khung Đề án cho Phát triển Công tác Xã hội (2009).
Thực tế cho
thấy, tại Việt Nam, lâu nay Công tác xã hội chỉ được hiểu trên ý nghĩa làm từ
thiện, các thành viên làm CTXH với tính chất tự phát, chủ yếu là của các tổ
chức đoàn thể như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi, Hội Cựu
chiến binh, cán bộ phường, xã đôi khi là những người dân tự nguyện…. Họ làm
việc chủ yếu theo kinh nghiệm, chưa được đào tạo các kỹ năng mềm, các khoa học
xã hội, kỹ năng nghề cần thiết về CTXH. Do vậy, hiệu quả giải quyết các vấn đề
xã hội, vấn đề của cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng dân cư không cao, thiếu
tính bền vững.
Như vậy, CTXH
trước tiên phải là một hoạt động chuyên nghiệp, được đào tạo chuyên môn và là
một ngành nghề được xã hội công nhận. CTXH giúp cho người dân nâng cao năng
lực, khả năng ứng phó và kỹ năng giải quyết khó khăn, kết nối người dân được
tiếp cận các nguồn hỗ trợ, các dịch vụ xã hội để cải thiện chất lượng cuộc
sống, mang đến sự phát triển đồng bộ và hài hòa giữa người và xã hội, góp phần
ngăn ngừa các vấn nạn xã hội, từ đó hướng tới một xã hội công bằng, bình đẳng
và dân chủ toàn diện.
Từ thực trạng
trên, đặt mục tiêu phát triển CTXH thành một nghề ở Việt Nam, năm 2010, Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-
2020 với mục tiêu: “Phát triển công tác xã hội trở thành một nghề ở Việt Nam;
nâng cao nhận thức toàn xã hội về nghề công tác xã hội; xây dựng đội ngũ cán
bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên công tác xã hội đủ về số lượng, đạt
về yêu cầu chất lượng, gắn với phát triển hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ công
tác xã hội ở các cấp, góp phần xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến”. Từ
đó, công tác xã hội đã chính thức được coi là một nghề chuyên môn với việc ban
hành mã ngành đào tạo và mã ngạch viên chức. Theo Đề án, hiện số người cần
trợ giúp của các dịch vụ CTXH chiếm khoảng 40% dân số cả nước, đây là một con
số không hề nhỏ cho trách nhiệm của ngành CTXH nói chung và của các nhân viên
CTXH nói riêng.
Với mục đích
tôn vinh giá trị cao quý, ý nghĩa nhân văn của nghề công tác xã hội; ghi nhận
những đóng góp của người làm công tác xã hội, góp phần đảm bảo thực hiện quyền
con người, công bằng, tiến bộ xã hội và hạnh phúc của nhân dân, ngày 15/9/2016,
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 25/3 hằng năm là Ngày Công tác xã
hội Việt Nam.
Đây cũng là
dịp để nhìn nhận, đánh giá tôn vinh giá trị cao quý, ý nghĩa nhân văn của
nghề công tác xã hội; ghi nhận vai trò và đóng góp của người làm công tác xã
hội trong việc tham gia giải quyết các vấn đề của cá nhân, gia đình, cộng đồng
và xã hội, đồng thời góp phần phát huy truyền thống “Lá lành đùm lá rách” và
tinh thần thương yêu, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau của người Việt Nam, thu hút
sự quan tâm của các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia trợ giúp các cá nhân,
gia đình và cộng đồng gặp hoàn cảnh khó khăn và phát huy vai trò của người làm
công tác xã hội để cùng nhau hướng tới một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
BAN TUYÊN GIÁO ĐẢNG UỶ
Sưu tầm & biên soạn