Vào ngày 20 tháng 10 năm 1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam (nay đổi tên là Hội Phụ nữ Việt Nam) chính thức được thành lập, để đánh dấu sự kiện này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20 tháng 10 hằng năm làm ngày truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỷ niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là "Ngày phụ nữ Việt Nam".
BÀI
TUYÊN TRUYỀN VỀ NGÀY PHỤ NỮ VIỆT NAM 20/10
Vào ngày 20 tháng 10 năm 1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam
(nay đổi tên là Hội Phụ nữ Việt Nam) chính thức được thành lập, để đánh dấu sự
kiện này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20 tháng 10 hằng
năm làm ngày truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỷ
niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là "Ngày phụ nữ Việt Nam".
“Lịch sử dân tộc Việt Nam còn mãi ghi đậm dấu ấn chói ngời
của những nữ anh hùng hào kiệt không chịu khuất phục kẻ thù, không chịu kiếp
sống nô lệ, đứng lên chống giặc ngoại xâm giành tự do. Dưới chế độ phong kiến
và đế quốc, phụ nữ là lớp người bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất
công nhất nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng.
Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ Việt Nam đã tham gia đông
đảo vào phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, còn có nhiều
phụ nữ nổi tiếng tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
như: Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế ....Từ năm 1927 những tổ chức quần
chúng bắt đầu hình thành và thu hút đông đảo tầng lớp phụ nữ như: Công Hội Đỏ,
Nông Hội Đỏ, các nhóm tương tế, tổ học nghề và các tổ chức có tính chất riêng
của giới nữ như: Năm 1927 nhóm các chị Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh Lãng,
Nguyễn Thị Thủy là ba chị em ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia Thanh niên
Cách mạng đồng chí Hội, các chị tuyên truyền, xây dựng tổ học nghề và học chữ.
Nhóm chị Thái Thị Bôi có các chị Lê Trung Lương, Nguyễn Thị Hồng, Huỳnh Thuyên
tham gia sinh hoạt ở trường nữ học Đồng Khánh. Năm 1928, nhóm chị Nguyễn Thị
Minh Khai cùng Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị An tham gia sinh hoạt hội đỏ của Tân
Việt. Nhóm này liên hệ với chị Xân, chị Thiu, chị Nhuận, chị Liên thành lập tờ
Phụ nữ Giải phóng ở Vinh. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Đông
Dương thành lập. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã
ghi: Nam nữ bình quyền”. Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ là lực lượng
quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng phụ nữ, gắn
liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ. Đảng đặt
ra: Phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng (công hội, nông hội) và thành
lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia cách
mạng.
Chính vì vậy, vào ngày 20 tháng 10 năm 1930, Hội Phụ nữ phản
đế Việt Nam (nay đổi tên là Hội Phụ nữ Việt Nam) chính thức được thành lập, để
đánh dấu sự kiện này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20
tháng 10 hằng năm làm ngày truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây
là ngày kỷ niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là "Ngày phụ nữ Việt
Nam".
Trong đấu tranh cách mạng, phụ nữ Việt Nam không chỉ là hậu
phương vững chắc cho tiền tuyến mà chính họ còn là những chiến sỹ cách mạng
kiên cường bất khuất, những nữ dân quân du kích, nữ thanh niên xung phong mở
đường, tải gạo, tải đạn với ý chí quật cường, chịu đựng gian khổ với tinh thần
lạc quan cách mạng, họ chăm sóc thương binh, đồng đội bằng tất cả tấm lòng yêu
thương. Đó chính là chị Nguyễn Thị Minh Khai, chị Võ Thị Sáu, chị Lê Thị Hồng
Gấm, chị Nguyễn Thị Định, Anh hùng liệt sĩ - Bác sĩ Đặng Thùy Trâm.....Còn có
biết bao người phụ nữ thầm lặng, dung dị, mộc mạc; họ cống hiến cho đất nước
những người con, người chồng vô cùng yêu quý; họ đã từng mòn mỏi chờ đợi người
thân trong chiến tranh, để rồi họ cũng không còn đủ nước mắt khi những người
thương yêu của họ không bao giờ trở về; Họ chính là những người mẹ, người bà,
người chị của chúng ta. Họ là những người mẹ Việt Nam anh hùng!
Trải qua các thời kỳ cách mạng, vị trí, vai trò của phụ nữ
được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao. Bác từng nói: “Giang sơn
gấm vóc Việt Nam là do phụ nữ Việt Nam, trẻ cũng như già, ra sức
dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Trong bản Di chúc bất hủ để lại cho
toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa, Người viết: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước, phụ nữ đảm đang đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất.
Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và
giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh
đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên”.
Đảng và Nhà nước luôn đánh giá cao những nỗ lực phấn đấu và
đóng góp to lớn của phụ nữ trong xây dựng gia đình và trong công cuộc xây dựng
đất nước. Họ xứng đáng là những con người được Bác Hồ tặng 8 chữ vàng "Anh
hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".
Những truyền thống, bản sắc tốt đẹp đó đã được các thế
hệ phụ nữ Việt Nam kế thừa và phát huy. Có thể nói, đây không chỉ là
niềm tự hào của riêng phụ nữ Việt Nam mà còn là một thứ tài
sản quý báu của cả dân tộc.